Gương Hạnh Ngài Nan Đà

1. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)

Tôi nghe như vầy.

Một thời Thế Tôn trú ở Di-tát-la, tại rừng xoài Đại Thiên. Rồi Thế Tôn mỉm cười khi đến tại một địa điểm. Tôn giả A-nan liền suy nghĩ: “Do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại mỉm cười? Không phải không có lý do khiến Thế Tôn mỉm cười”. Rồi Tôn giả A-nan, đắp y phía một bên vai, chắp tay vái lạy Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì Thế Tôn lại mỉm cười? Không phải không lý do khiến Thế Tôn mỉm cười.

Thế Tôn bảo với Tôn giả A-nan rằng: 


–Này A-nan, ông nên biết, thuở xưa, tại địa điểm này, thời quá khứ đã quá lâu xa kiếp, A Tăng Kỳ vô lượng vô biên không tính xuể, cõi nước lúc đó không có Phật, không có pháp Phật, khi ấy có vị Đại vương tên Quang Minh. Lúc ấy, có vị tiểu vương dâng con voi trắng đẹp đẽ lên vua Quang Minh. Vua thấy voi đẹp rất vui mừng, bèn sai người tìm người luyện voi theo đúng pháp mà huấn luyện voi. Người chuyên về luyện voi vâng lệnh theo đúng cách để luyện tập, sau đó dâng vua cỡi đi dạo chơi trong rừng núi. 




Con voi ấy lúc ở trong rừng, đánh hơi có giống voi cái, tâm dâm phát khởi, nên chạy xộc về hướng ấy để tìm. Vua liền bảo người chuyên luyện voi tìm cách chế ngự cho nó đứng lại, người này bèn dùng cái móc sắt chế ngự, nhưng chẳng thể khiến voi dừng. Lúc này, mắt vua nhìn thấy cảnh vật bên ngoài tất cả điều xoay chuyển, vào sâu trong lùm cây rậm rạp, áo rách, thân thể bị thương tích, liền ngước mặt lên vịn tay vào một cành cây, khỏi cần ai giúp vẫn thoát được. 


Không lâu sau người luyện voi chạy tới, thấy vua bèn khấu đầu trấn an rằng:

Nhà vua tức giận trả lời:


- Ta không muốn con voi đó nữa, suýt nữa nó đã làm cho ta mất mạng! Nhà ngươi cũng hãy đi khuất, từ nay về sau ta không còn muốn thấy ngươi dạy voi nữa!


Người luyện voi không biết nói sao, đành phải ngồi yên chờ vua nguôi cơn giận.


Cũng ngay tại lúc đó, các vị đại thần và dân chúng cũng vừa đến tới, họ tưởng rằng vua đã bị voi giết chết rồi vì trên đường đi có người thì nhặt được mũ vua, có người thì nhặt được vương bào nên ai cũng kinh hãi khủng khiếp. Tìm mãi mới thấy được vua, người thì mau mau đem y áo tới cho vua mặc, người thì dắt một thớt voi khác thuần thục hơn cho vua ngồi lên an toàn rồi trở về hoàng cung. 


Voi trắng kia về sau quả nhiên không quen sống nơi núi rừng hoang dã, niệm dâm cũng đã lắng xuống, lại nhớ chuyện được ăn uống nơi con người nên trở lại chốn cũ. Vua hỏi vị Đại thần: 


“Nếu người nào vì vua tạo ra nhân duyên ấy thì nên xử trị như thế nào?” 


Vị đại thần tâu: “Tội đáng xử theo pháp cực hình.” 


Khi ấy, người chuyên luyện voi thưa: “Chớ nên lừa dối mà giết nó, tôi đã có cách xử trị khéo léo.” 


Nhà vua hỏi: “Voi ác như thế thì xử trị khéo léo ra sao?”. 


Người chuyên luyện voi liền ở trước chỗ vua nung một thỏi sắt lớn cho thật đỏ rồi nói với voi: “Hãy chọn lấy thỏi sắt nung đỏ này mà nuốt đi. Nếu không nuốt thì sẽ đúng theo pháp xưa mà xử trị nhà ngươi.” 


Voi tự suy tính, thà trong chốc lát mà chết, chứ không thể chịu nổi sự đau khổ lâu dài. Voi nghĩ xong bèn quỳ xuống nhìn về hướng nhà vua chảy nước mắt mà cầu cứu, nhưng lửa giận của vua còn đang hừng hực nên ông quay đầu đi chỗ khác không thèm nhìn lại. Voi trắng nhìn những người bốn phía xung quanh không có ai có thể cứu mình được, bèn dốc lấy thỏi sắt nuốt cả vào bụng, cả thân thể bị thiêu đốt, rống lớn lên rồi chết.



Tất cả mọi người thấy thế cảm động thương voi. Ai nấy đều phải sa lệ. Nhà vua thấy thế mới rõ về sự tập luyện chế ngự kia, liền hỏi người chuyên luyện voi: “Voi đã được luyện tập thuần thục như vậy, nhưng voi gần gũi với nhân duyên gì mà xảy ra việc ác như thế?” 

Người chuyên luyện voi tâu: “Tâm có điều dâm dục là bệnh nặng, sức mạnh ấy phát khởi thì không có gì lường tính, kiềm chế nổi!”


Vua nghe rồi thì kinh sợ nói: “Dâm dục là thứ bệnh lớn, vậy nó phát sinh từ đâu?”. 


Người chuyên luyện voi thưa: “Thần cũng không rõ chỗ phát khởi và lúc tăng giảm của nó.” 


Vua bảo: “Bệnh như vậy mà không ai có thể chữa trị dược sao?”. 


Người chuyên luyện voi tâu: “Muốn chữa trị bệnh này, phần đông đều chẳng có được phương thức chung, lại tự mình đánh mất việc chữa trị ấy, có người nhằm phá trừ thứ giặc dâm dục nên xa lìa năm thứ dục lạc, thực hành khổ hạnh. Hoặc có người tuy thọ nhận năm thứ dục lạc nhưng tình ý thì chán lìa, do nhân duyên ấy nên thoát khỏi bệnh đó. Hoặc có thì xuất gia. Nói chung là có vô số nhân duyên nhằm tránh khỏi mối lo này, nhưng đều chẳng nhổ được gốc cây dâm độc ác kia.” 


Vua nghe xong càng lo sợ, bảo người chuyên luyện voi: “Như vậy thì bệnh ấy khó có thể chữa trị được! Ở trong cõi người, trời, ai có khả năng chữa được bệnh này?” 


Người chuyên luyện voi tâu: “Thần nghe truyền tụng rằng có bậc đại nhân xuất hiện ở đời, thân tướng màu vàng ròng, có ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp kèm theo, ánh sáng thường tỏa chiếu ra xa, thường thương xót chúng sinh, được gọi là Phật. Bậc ấy thấu đạt được tâm dâm dục sinh diệt, vì thương tưởng muôn loài, nên đã vì họ mà giảng nói.” 



Nhà vua nghe tâu như thế xong liền bước ra khỏi chỗ ngồi, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay nói rằng: “Ta theo đúng như pháp để trị nước, cùng tạo mọi công đức như Bố thí, v.v… theo nhân duyên của bao phước đức ấy sẽ được thành Phật, chữa trị bệnh nặng dâm dục cho tất cả chúng sinh”. 

Từ khi phát tâm như thế về sau, lần đầu được gặp Phật, hiệu là Thích-ca giống như Ta, ở vào thời chúng sống lâu mạng một trăm tuổi thành Phật. Phật Thích-ca hiện nay sự việc đều giống với Ta. Thời gian vua Quang Minh làm người chuyên làm đồ gốm tên là Quảng Chiếu, Phật Thích-ca kia hóa độ chúng sinh vô số, rồi cùng năm trăm vị A-la-hán hóa độ Quảng Chiếu. Phật và các vị La-hán đích thân thực hành chẳng quản khó nhọc, cũng đi tới nhà Quảng Chiếu. Ông ta liền nước ấm, dầu xoa, đèn đuốt, mật ong, nước uống, v.v… dâng lên cúng dường Phật. Người thợ chuyên về đồ gốm ấy từ khi được nghe Phật pháp, liền phát tâm: “Vào thời vị lai tôi được thành Phật cũng sẽ như ngài!” 


Thế Tôn nói xong về nhân duyên như vậy rồi, lại nói tiếp:


–Này A-nan, con voi trắng đã bị lửa dục đốt cháy thân, nuốt thỏi sắt nung đỏ, đã thọ nghiệp báo một cách thê thảm trong hiện kiếp của mình khiến cho mọi người kinh hãi và lấy đó răn mình, nên đoạn trừ được ác duyên và mở rộng đường giác ngộ, phước đức đạt được cũng không thể nghĩ bàn. Con voi trắng thời ấy chính là A La Hán Nan Ðà. Vị thầy dạy voi nay là Xá Lợi Phất, và vua Ðại Quang Minh chính là ta vậy. Lúc ấy ta thấy việc điều phục thân voi nên muốn tìm cách điều phục tâm, ở trong chốn tối tăm mà phát nguyện, chỉ vì muốn phá trừ bệnh dâm dục. Khi đó Ta phát đại sơ tâm bồ đề, mong tìm cầu Phật đạo.


Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả A-nan hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.


2. Nhân Duyên Ngài Nan-đà


Tôi nghe như vầy: 


Một thời, Phật ở rừng Ni-câu-đà, nước Ca-tỳ-la-vệ. Lúc bấy giờ, Thế Tôn giáo hóa Thích tử Nan-đà xả tục xuất gia, nói về nhân duyên xuất gia, lại cũng ca ngợi nhân duyên xuất gia. Ngài nói:


-Này Nan-đà, lại đây! Ông nên đi xuất gia.


Nghe Phật nói lời này rồi, Thích tử Nan-đà bạch Phật: -Bạch Thế Tôn, con không xuất gia. Lý do tại sao? Vì con nguyện trọn đời đem bốn thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc thang cúng dường cho Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.


Thế Tôn lại giáo hóa Nan-đà bằng cách tán thán công đức xả tục xuất gia..., thường nói nhân duyên xuất gia và cho đến dùng lời tán thán khuyên xuất gia. Như vậy, đến lần thứ hai, lần thứ ba, mà Nan-đà không chịu xuất gia, vẫn nói:


-Con trọn đời đem bốn thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc thang cúng dường cho Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.

 

Sau đó một thời gian ngắn, Thế Tôn sau khi thọ trai xong đem theo một thị giả, đi từ từ hướng về cung điện của Thích tử Nan-đà. Lúc ấy đồng tử Nan-đà cùng nàng Tôn-đà-lợi dạo chơi, ngồi trên lầu ngắm cảnh. Nan-đà ở trên lầu, xa xa trông thấy Thế Tôn hướng về cung điện mình, nên vội vã đứng dậy, xuống lầu nghinh tiếp Thế Tôn. Đến nơi, Nan-đà đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng về một bên và bạch Phật:


-Hay thay! Bạch Thế Tôn, Ngài từ phương xa nào đến đây? Cúi xin Thế Tôn rủ lòng vào nhà con, an tọa trên chỗ ngồi.

 

 Bấy giờ Thế Tôn vào cung điện Nan-đà, ngồi trên tòa, an ủi ủy dụ Nan-đà. Ủy dụ xong, Ngài ngồi im lặng. Nan-đà bạch Phật:


-Bạch Thế Tôn, cúi xin Ngài thọ sự cúng dường trai phạn. Con sẽ cho người sửa soạn đủ thức ăn sơn hào hải vị.


Phật bảo Nan-đà:


-Ta thọ trai rồi, không nên dọn thức ăn nữa. Đồng tử Nan-đà lại bạch Phật:


-Con có ít mật phi thời, Ngài có dùng được chăng? Phật bảo Nan-đà:


-Tùy ý đồng tử. Nan-đà bạch Phật:

 

-Dạ vâng, bạch Thế Tôn.


Nan-đà bưng bát mật phi thời dâng cho Thế Tôn. Thế Tôn lúc ấy không chịu tiếp lấy bát mật. Đồng tử Nan-đà lại đem bát mật trao cho thị giả của Phật, nhưng vị thị giả cũng không tiếp lấy. Thế Tôn cùng vị thị giả đứng dậy trở về rừng Ni-câu-đà, đồng tử Nan-đà cũng từ trên lầu bưng bát mật đi theo sau Phật.


Bấy giờ nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi đang chải đầu, thấy Nan-Đà bưng bát mật đầy đi theo sau Phật, nàng vội cao giọng vọng gọi:


“Nan-đà ơi, Thánh tử muốn đi đâu đó?” Nan-đà tay chỉ vào bát mật mà nói:


“Đem bát mật này đến dâng cúng cho Phật. Đến đó rồi, anh về liền.” Tôn-đà-lợi nói:


“Thánh tử mau về, không nên ở lâu bên đó.”



Khi Thế Tôn ra khỏi cung điện, Ngài vì Nan-đà nên đi khắp đó đây trên những ngả đường. Ý Phật là muốn tất cả dân chúng trong thành thấy Nan-đà bưng bát mật phi thời đi sau Như Lai.
 

Bấy giờ dân chúng thấy việc như vậy, đều nói với nhau: “Ngày nay Thế Tôn đã quyết định khiến Nan-đà xả tục xuất gia.”

 Khi về đến tự viện, Ngài đưa tay ra hiệu bảo một Tỳ-kheo đến tiếp lấy bát mật trong tay Nan-đà. Khi ấy vị Tỳ-kheo hiểu được ý Phật, liền nhận bát mật từ tay Nan-đà. Lúc bấy giờ Nan-đà đảnh lễ dưới chân Phật và thưa:


-Bạch Thế Tôn, con xin từ giã, muốn trở về nhà. 

 

 Phật bảo Nan-đà:


-Ông không nên trở về. 

 

 Nan-đà lại bạch Phật:


-Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ không muốn xuất gia. Tại sao? Vì con nguyện trọn đời đem bốn việc cúng dường cho Phật và chúng Tỳ-kheo.


Thế Tôn lại bảo Nan-đà.


-Cõi Diêm-phù-đề này, bề dọc rộng bảy ngàn do-tuần, hướng Bắc rộng rãi, hướng Nam chật hẹp, giống như thùng xe. Ví dụ trong đó chứa đầy chư vị La-hán nhiều như mía lau, mè, lúa... Có thiện nam hay thiện nữ nào trọn đời đem bốn sự cúng dường cho những vị La-hán này. Sau khi các vị La-hán này nhập Niết-bàn, họ lại xây tháp thờ xá-lợi, ở trên mỗi tháp trang trí phướn lọng và bảo linh, lại dùng hương hoa, đèn dầu... để cúng dường, ông nghĩ thế nào? Công đức của người thiện nam hay thiện nữ ấy có nhiều không?

 

 Nan-đà đáp:


-Phước ấy rất nhiều.


Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Nan-đà:

 

-Nếu có người trọn đời đem bốn sự..., hoa hương, dầu, đèn... cúng dường chư vị La-hán trong cõi Diêm-phù-đề như trên. Nếu có người cúng dường một Phật, thì quả báo cúng dường một Phật hơn công đức cúng dường các vị La-hán ở trước.


Lại nữa, này Nan-đà, nếu người nào có thể vào trong giáo pháp của Phật, xuất gia chỉ được một ngày một đêm, tu hành phạm hạnh thanh tịnh, thì quả báo của người này hơn quả báo của người cúng dường Phật. Do vậy Nan-đà nên quyết định xuất gia, chớ nên tham hưởng thú vui ngũ dục ở đời.


Lại nữa, này Nan-đà, các dục lạc thú vị ít, đau khổ lại nhiều. Dục lạc vô thường nên đáng xa lìa. Dục lạc là gốc của đại khổ, là ung nhọt lớn, là gai nhọn độc, là sự ràng buộc của ách nạn lớn, là đại khổ não, là tướng tổn giảm, là tướng phá hoại, vô thường, không đứng yên, không kiên cố, nguy hiểm, dễ tan vỡ, nhiều sự sợ sệt, là khổ, là không, là không có tự chủ. Ông nay cần phải quán sát tội lỗi đau khổ của ngũ dục như vậy.


Này Nan-đà, ông đã tư duy rõ ràng về tội lỗi đau khổ của ngũ dục, thì chớ nên tham đắm.


Được nghe Thế Tôn nói những tội lỗi đau khổ của ngũ dục như vậy, trong tâm Nan-đà tuy không thích xuất gia, nhưng vì kính nể Phật nên ông cúi đầu bái lạy, bạch Thế Tôn:


-Con sẽ xuất gia.


Thế Tôn đang đi kinh hành, liền đưa tay ra hiệu vẫy một Tỳ-Kheo đến và bảo:


-Thầy hãy kêu một thợ cạo tóc đến đây.


Bấy giờ vị Tỳ-kheo này liền kêu một thợ cạo tóc ở trong chúng đến trước mặt Nan-đà. Khi người này cầm dao cạo, sắp sửa cạo tóc cho Nan-đà. Thì Nan-đà nắm tay đưa trước mặt thợ cạo và nói:


-Ngươi có oai đức gì mà dám cạo đầu ta?

 

Bấy giờ Thế Tôn chánh ý chánh niệm bảo Nan-đà:

 

-Tỳ-kheo hãy đến đây! Ở trong pháp của Ta tu phạm hạnh, vì để dứt sạch các khổ.


Khi Như Lai nói lời như vậy xong, râu tóc của Nan-đà liền tự rụng, giống như vị Tỳ-kheo vừa cạo râu tóc cách đây bảy ngày, thân tự nhiên đắp ca-sa, tay bưng bình bát đúng như pháp, liền được xuất gia thọ giới Cụ túc, thành vị Trưởng lão.



Nan-đà cũng có ba mươi tướng tốt không thiếu, thân thể sắc vàng nhưng thấp hơn Phật bốn ngón tay, tuấn tú dễ thương, người trông không chán. Nan-đà sắm ca-sa giống như y của Phật, may rồi dùng mặc. Có Tỳ-kheo từ xa trông thấy Nan-đà đi đến, đều lầm tưởng là Phật, nên đứng dậy nghinh tiếp. Khi đến nơi mới biết chẳng phải Phật, họ trở lại chỗ ngồi. Vì lý do này các Tỳ kheo chê trách, suy nghĩ: “Tại sao Trưởng lão Nan-đà sắm y giống như Phật mà dùng!.”


Các Tỳ-kheo này đến bạch Phật. Bấy giờ Thế Tôn vì nhân duyên này, lập tức triệu tập đại chúng. Ngài hỏi Nan-đà:


-Ông có may y Tăng-già-lê rộng bằng y của Phật mà dùng hay không? 

 

Bấy giờ Nan-đà đáp:


-Bạch Thế Tôn, việc này sự thật là như vậy. Phật bảo Nan-đà:

 

-Như vậy là không đúng pháp. Tại sao ông mặc y Tăng-già-lê rộng như y của Phật vậy?

 

Thế Tôn răn dạy, quở trách Nan-đà như vậy rồi tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:


-Từ nay trở về sau, các người không được may y rộng như y của Phật mà mặc. Nếu ai vi phạm thì như pháp mà trị tội.


Bấy giờ Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn cấm hẳn không cho phép Tỳ-kheo dùng y rộng dài như Phật. Y của ta phải giặt ủi cho bóng láng để mặc.” Nan-đà liền ủi y bóng láng mà dùng, rồi lấy thuốc tô điểm đôi mắt và kẻ mi, trang điểm thân hình, chân mang giày da, tay phải bưng bát, tay trái cầm dù, đi đến bạch Phật:


-Bạch Thế Tôn, con muốn vào làng để khất thực. 

 

Thế Tôn bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Ông chẳng phải có tâm chánh tín xả tục xuất gia hay sao? 

 

Nan-đà đáp:


-Đúng như lời Thế Tôn nói, sự thật là như vậy. 

 

Thế Tôn lại bảo Nan-đà:


-Ông đã là kẻ thiện nam chánh tín, xả tục xuất gia. Tại sao ủi y phục bóng láng mà mặc? Lại vì việc gì trang điểm thân thể, dùng thuốc tô điểm đôi mắt, kẻ mày, chân mang giầy da, một tay bưng bát, một tay cầm dù, muốn đi khất thực? Lại nữa, này Nan-đà, nếu như ông ở chỗ vắng vẻ, đi khất thực để sống mặc y phấn tảo, như vậy mới là điều tốt.


Thế Tôn vì sự việc này nói kệ:


Khi nào Ta thấy được Nan-đà 

Ở nơi vắng lặng thường khất thực 

Tri túc thiểu dục dùng vật bỏ

Lại thích xa lìa các tướng dục?


Bấy giờ Thế Tôn vì sự việc này, tập họp chúng Tỳ-kheo và tuyên bố:


-Này các Tỳ-kheo, từ nay trở về sau, không được giặt ủi y bóng láng mà dùng. Nếu người nào mặc y bóng láng, sẽ y như pháp mà trị tội. Lại nữa, các người không được dùng thuốc tô điểm đôi mắt, kẻ mày và mang giầy da tốt. Lại cũng không được cầm bát mỏng, đẹp và cũng không được cầm đù đi vào thành, xóm làng khất thực. Nếu Tỳ-kheo nào phạm những điều như vậy, thì y như pháp mà trị.


Bấy giờ Nan-đà tuy bị Thế Tôn cấm hẳn các việc ủi y bóng láng, không được dùng thuốc tô mắt, kẻ mày, không được mang giầy da tốt, không được dùng bát mỏng, đẹp và không được mang dù. Nhưng vẫn còn nghĩ đến thế lực và thú vui của cuộc đời vua chúa, không chịu tuân theo giới cấm, lại mơ tưởng nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi, nghĩ đến sắc dục, không tu tập phạm hạnh, ý muốn xả giới hoàn tục. Vì lý do này, Nan-đà thường vẽ tượng nàng Tôn-đà-lợi.


Vào một hôm, Nan-đà đi đến chỗ vắng vẻ, lấy đất sét hay tấm ván vẽ hình Thích nữ Tôn-đà-lợi, ngắm nhìn cả ngày. Có Tỳ-Kheo khác thấy được, sinh tâm chê trách, nói với Nan-đà:


-Tại sao Trưởng lão ở nơi vắng vẻ, lấy đất sét hay ván vẽ hình phụ nữ rồi ngắm nhìn trọn ngày như vậy?

 

Bấy giờ các Tỳ-kheo đem việc này bạch với Phật. Thế Tôn vì nhân duyên này triệu tập các Tỳ-kheo. Ở trong chúng, Ngài hỏi Nan-đà:


-Thật sự ông có ở chỗ vắng vẻ dùng đất sét hay ván vẽ hình phụ nữ rồi ngắm nhìn trọn ngày không?

 

Nan-đà bạch Phật:


-Bạch Thế Tôn, thật sự là như vậy. 

 

Bấy giờ Phật bảo Trưởng lão Nan-đà:

 

-Ông làm việc như vậy là tốt chăng? Ôi, kẻ xuất gia làm Tỳ-Kheo đâu được vẽ hình phụ nữ để ngắm nghía!


Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:


-Này các Tỳ-kheo, từ nay trở đi, các người không được vẽ hình phụ nữ, dầu là hình của người có thật hay là hình người do mình tưởng tượng. Do vì tâm dục, vẽ rồi ngắm nhìn. Nếu có Tỳ-kheo nào vẽ hình phụ nữ mà ngắm nhìn, thì mắc tội trái với giới luật.


Vào một lúc khác, Trưởng lão Nan-đà theo thứ lớp đến ngày trực trông coi tu viện. Nan-đà nghĩ thế này: “Như Lai chẳng bao lâu sẽ vào thành khất thực. Hôm nay ta trở về hoàng cung.” Khi ấy biết được tâm niệm Nan-đà, Thế Tôn gọi Trưởng lão Nan-đà đến và bảo:


-Này Nan-đà, nếu ông muốn đi thì đóng các cửa phòng lại rồi mới đi.


Thế Tôn nói như vậy rồi, liền đi vào xóm làng khất thực. 

 

Trưởng lão Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn đã đi vào làng khất thực rồi, ta sẽ được trở về nhà.”


Khi ấy Nan-đà thấy cửa phòng Thế Tôn bỏ trống, nên nghĩ: “Ta đóng cửa phòng của Thế Tôn, rồi sau đó mới trở về nhà.”

 

Cửa phòng của Thế Tôn đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Xá-lợi-phất chưa đóng, Nan-đà liền đi đến đóng cửa phòng của ngài Xá-lợi-phất. Cửa phòng cửa Xá-lợi-phất đóng rồi, lại thấy cửa phòng của Mục-kiền-liên bỏ trống. Nan-Đà vội đi đến đóng cửa phòng của Mục-kiền-liên. Cửa phòng của Mục-kiền-liên đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Đại Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Đại Ca-diếp. Cửa phòng của Đại Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Đại Ca-chiên-diên bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Đại Ca-chiên-diên. Cửa phòng của Đại Ca-chiên-diên đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Cửa phòng của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Na-đề Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Na-đề Ca-diếp. cửa phòng của Na-đề Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Già-da Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Già-da Ca-diếp. Cửa phòng của Già-da Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ưu-ba-tư-na bỏ trống... Cửa phòng của Ưu-ba-tư-na đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Câu-hy-la bỏ trống... Cửa phòng của Câu-hy-la đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ma-ha Chiên-đà bỏ trống... Cửa phòng của Ma-ha Chiên-đà đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Lợi-ba-đa bỏ trống... 

 

Cứ tuần tự như vậy, cửa thứ nhất đóng, cửa thứ hai bỏ trống, cửa thứ ba đóng rồi thì cửa thứ tư bỏ trống. Nan-đà thấy đóng một cửa thì một cửa bỏ trống, nên nghĩ thế này: “Ta tội lỗi gì mà các Tỳ-kheo hành ta như vậy! Dầu là cửa đóng hay bỏ trống, ta sẽ bỏ đi về nhà, vì e rằng chẳng bao lâu nữa Thế Tôn trở về.” Nghĩ như vậy rồi, ông liền từ rừng Ni-câu-đà sắp sửa ra về.


Khi ấy Thế Tôn bằng Thiên nhãn xem thấy, biết ý Nan-đà muốn rời khỏi khu rừng Ni-câu-đà. Như Lai thấy vậy liền ẩn thân nơi thành Ca-tỳ-la-vệ, lập tức xuất hiện nơi rừng Ni-câu-đà. Khi ấy Nan-đà thấy Phật có mặt trong rừng, liền vội ngồi núp dưới thân cây Ni-câu-đà lớn. Lúc ấy Thế Tôn dùng sức thần thông đưa vị đại thọ này lên hư không. Phật thấy Nan-đà ngồi núp dưới gốc cây, Ngài hỏi:


-Này Nan-đà, hôm nay ông muốn đi về đâu?

 

 Nan-đà đáp:


-Bạch Thế Tôn, ngày nay con nhớ lại sự tự do khoái lạc của vương vị và lại nhớ Thích nữ Tôn-đà-lợi. Do vậy, chẳng thích tu phạm hạnh, ý muốn xả giới hoàn tục.


Nhân đây Phật nói kệ:


Muốn ra khỏi rừng đã ra khỏi 

Ra khỏi rừng rồi lại vào rừng

Ông hãy quán sát người như vậy 

Ra khỏi trói buộc, lại trói buộc.


Thế Tôn vì Nan-đà nói kệ như vậy rồi, lại khuyên:

 

-Này Trưởng lão Nan-đà, ông ở trong giáo pháp của Ta, phải phát tâm siêng năng tinh tấn, tu các phạm hạnh để diệt trừ các đau khổ.


Thế Tôn đã giáo hóa Nan-đà như vậy nhưng Nan-đà vẫn không quên lạc thu về ngũ dục ngày trước và sự khoái lạc thỏa thích của vương vị, vẫn còn mơ tưởng nàng Tôn-đà-lợi, không thích chánh pháp tu theo phạm hạnh, muốn xả giới trở về hoàng cung.


Vào một hôm, có vị đại trưởng giả thỉnh Phật cúng dường trai phạn. Hôm ấy cũng nhằm phiên Nan-đà giữ Già-lam. Lúc ấy Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn nhận lời mời của trưởng giả. Khi Ngài vào làng thọ trai, thì ta sẽ trở về hoàng cung.”


Biết tâm niệm của Nan-đà nên Thế Tôn bảo:


-Này Nan-đà, nay ông phải biết đến lúc rưới nước quét dọn vườn chùa và phải lấy đầy nước những bồn rửa của Tỳ-kheo.

 

Nói như vậy rồi, Phật đi vào xóm làng để chứng trai theo lời mời trước.


Lúc ấy Trưởng lão Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn nhận lời thỉnh, đi vào làng dự hội. Ta có thể tự do về nhà.” Nan-đà nghĩ như vậy, thấy trước phòng Như Lai nhiều đất dơ bẩn nên lại suy nghĩ: “Ta trước tiên đến quét dọn phẩn uế rồi sau đó trở về hoàng cung.”


Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà cầm chổi quét dọn trước phòng của Như Lai. Khi Nan-đà quét dọn bên này thì gió thổi cỏ rác tấp phủ nửa bên kia, nên phải quét trở lại. Bấy giờ Nan-đà nghĩ: “Ta thôi quét dọn, trước phải lấy đầy nước tất cả bồn rửa của chúng Tăng, sau mới quét sân.”


Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà đem tất cả bồn rửa của chúng Tăng đến giếng lấy đầy nước. Khi những bồn đã đựng đầy nước thì bị lật úp. Khi ấy Nan-đà lại nghĩ: “Ta làm sao quét sạch và lấy nước đầy các bồn được, Như Lai không bao lâu sẽ trở về, ta nên mau mau trở về hoàng cung.” Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà liền từ rừng Ni-câu-đà sắp trở về hoàng cung.


Bấy giờ Thế Tôn đang thọ trai tại nhà trưởng giả, Ngài dùng Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt loài người, xem thấy Nan-đà đang từ rừng Ni-câu-đà sắp đi về nhà. Thấy vậy rồi, Ngài hóa một thân khác, từ nhà trưởng giả trong nháy mắt hiện ở rừng Ni-câu-đà, đứng trước mặt Trưởng lão Nan-đà.


Lúc ấy Nan-đà ở xa trông thấy Thế Tôn sắp đến gần mình, liền trèo lên bờ gộp cao lớn, rồi trèo xuống ngồi núp mình trong eo trũng.


Bấy giờ Thế Tôn dùng sức thần thông biến bờ núi cao kia thành vùng đất bằng phẳng như bàn tay, Ngài thấy Nan-đà ngồi như vậy, mới bảo:


-Ông ngồi ở đây để làm gì? 

 

Nan-đà bạch Phật:


-Thưa Thế Tôn, con đã hứa với nàng Tôn-đà-lợi là con sẽ trở về nhà. Nay con nghĩ rằng không nến để mình trở thành kẻ nói dối. Do vậy, con muốn trở về nhà.


Phật bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Ông cần gì phải gặp Tôn-đà-lợi, thân nàng ta như da gói lấy xương, bên trong chứa đầy các thứ tủy, não, máu, mủ, phân tiểu, giống như hố xí, thật đáng ghê tởm! Ông cần phải xa lìa.

 

Này Nan-đà, Ta nói đại khái, mỗi một chúng sinh cùng với vợ mình chung sống tiết ra đồ bất tịnh nhiều hơn nước biển cả, mà cũng không biết lấy làm đủ.


Bấy giờ Thế Tôn vì nhân duyên này, nói kệ:


Muốn ra khỏi rừng, đã ra khỏi 

Ra khỏi rừng rồi, lại vào rừng 

Ông hãy quan sát người như vậy 

Ra khỏi trói buộc, lại trói buộc.


Bấy giờ Thế Tôn giáo hóa Nan-đà, Ngài dạy:


-Này Nan-đà, ông đang ở trong giáo pháp của Ta, tự do vui vẻ tu phạm hạnh thanh tịnh, là do muốn dứt tất cả khổ.


Lúc ấy Nan-đà tuy được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giáo hóa như vậy mà vẫn không ưa thích tu phạm hạnh nên cùng với Lục quần Tỳ-kheo kết làm bè bạn, thường lui tới bàn luận, từ sáng đến tối nói toàn chuyện tà mạng xấu xa.

 

Bấy giờ Thế Tôn thấy Nan-đà làm việc như vậy, nên suy nghĩ: “Ngày nay Nan-đà đã học theo đám Lục quần Tỳ-kheo, sợ tổn hại công đức hạnh nghiệp. Ta nên cắt đứt không cho Nan-đà giao du với họ.”


Ngài nghĩ như vậy rồi, liền bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Này Nan-đà, ông đến đây, Ta cùng ông đi vào thành Ca-tỳ-la-vệ. 

 

Nan-đà bạch Phật:


-Dạ vâng, như lời Thế Tôn dạy.


Bấy giờ Thế Tôn cùng Nan-đà đi vào thành Ca-tỳ-la-vệ, lần lần đi đến cửa hàng bán cá. Khi ấy Thế Tôn thấy có đến trăm con cá hôi thôi trải trên tấm chiếu cỏ tại gian hàng. Thấy rồi, Ngài bảo Nan-đà:


-Nan-đà lại đây, ông hãy cầm một cọng chiếu cỏ phơi cá. 

 

Nan-đà trả lời:


-Bạch Thế Tôn, con sẽ làm như lời Ngài dạy.


Nói lời ấy rồi, Nan-đà liền rút một cọng cỏ hôi tanh dưới tấm chiếu phơi cá nơi gian hàng. Khi Nan-đà cầm cọng cỏ tranh nơi tay rồi, Phật lại bảo:


-Ông cầm một lát rồi ném xuống đất. 

 

Nan-đà bạch Phật:

 

-Y như lời Thế Tôn dạy.


Khi ấy Nan-đà nắm cọng cỏ tranh hôi tanh đứng trong thời gian ngắn, rồi ném xuống đất. Lúc ấy Phật lại bảo Nan-đà:

 

-Ông hãy ngửi tay của ông.


Nan-đà liền ngửi bàn tay mình. Phật lại hỏi:


-Này Nan-đà, ông thấy bàn tay có mùi gì? 

 

Trưởng lão Nan-đà đáp:


-Thưa Thế Tôn, chỉ có một mùi hôi thối bất tịnh.

 

Bấy giờ Thế Tôn bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Đúng vậy! Đúng vậy! Người nào gần gũi bạn xấu, cùng với họ kết làm bạn bè, giao du với nhau thì tuy kết bạn trong thời gian ngắn, sau do huân tập việc xấu, khiến cho tiếng xấu đồn xa.


Thế Tôn nhân việc này mà nói kệ:


Từ tấm chiếu cỏ để phơi cá 

Dùng tay rứt lấy cọng cỏ lát

Tay người bị thổi mùi cá chết 

Gần gũi bạn xấu cũng như vậy.


Rồi một hôm, Thế Tôn cùng Trưởng lão Nan-đà đồng đi đến hàng bán hương liệu, thấy nhiều túi hương ở nơi gian hàng. Thấy vậy, Ngài bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Này Nan-đà, ông hãy cầm lấy túi hương nơi gian hàng này. 

 

Nan-đà y theo lời Phật dạy, cầm lấy các túi hương nơi cửa hàng. Phật lại bảo Nan-đà:


-Ông cầm túi hương này trong chốc lát rồi để nó xuống.


Nan-đà nghe Phật bảo như vậy, đưa tay cầm lấy túi hương trong phút chốc rồi để xuống. Phật lại bảo Nan-đà:


-Ông hãy ngửi bàn tay ông.



Nghe Phật bảo, Nan-đà liền ngửi bàn tay mình. Phật hỏi Nan-đà:


-Ông ngửi bàn tay thấy có mùi gì? 

 

Nan-đà đáp:


-Bạch Thế Tôn, bàn tay có mùi thơm dễ chịu vô cùng. 

 

Phật bảo Nan-đà: 


-Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu người gần gũi bạn tốt, thường từng sống chung với hạng người này, nhờ đó mà được ảnh hưởng. Do gần gũi với nhau, tiếng tốt nhất định sẽ vang lừng.


- Bấy giờ Thế Tôn nhân đây mà nói kệ:


Tay ai cầm lấy hương trầm thủy 

Hoắc hương, xạ hương, các thứ hương 

Cầm hương chốc lát người cũng thơm 

Gần gũi bạn lành cũng như vậy.


Bấy giờ Thế Tôn ra khỏi thành Ca-tỳ-la-vệ, về rừng Ni-câu-đà. Vì lý do này, Phật tập hợp chúng Tỳ-kheo, bảo Nan-đà:


-Này Nan-đà, ông đừng gần gũi lục quần Tỳ-kheo, không nên cùng với họ kết làm bạn bè. Vì sao? Người nào gần gũi bạn xấu như vậy, hoặc kết làm bạn bè, thì cùng làm việc với nhau, hoặc theo họ làm tất cả các sự việc xấu. Nếu gần gũi các người xấu thì tiếng xấu sẽ đồn khắp trong thế gian.


Này Nan-đà, nếu muốn tìm bạn thân tốt thì ông nên gần gũi các Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Ca-chiên-diên, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Ưu-ba-tư-na, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Tôn-đà, Ly-bà-đa... Ta khuyên ông nên gần gũi, tùy thuận và phục vụ các Tỳ-Kheo ấy. Tại sao? Nếu gần gũi bạn tốt, thân thiện phục vụ, thì tuy chưa chứng được sự lợi ích, nhưng giao du với nhau thì tiếng tốt sẽ được đồn khắp trong thế gian.


Bấy giờ Thế Tôn nhân đây nói kệ:


Người nào gần gũi với bạn xấu 

Hiện tại không được nghe tiếng khen 

Bởi vì gần gũi với bạn xấu

Tương lai sẽ đọa ngục A-tỳ.

Nếu người gần gũi với bạn tốt 

Tùy thuận theo họ việc làm việc thiện 

Tuy chưa chứng đắc lợi thế gian 

Nhưng trong tương lai sẽ hết khổ.


Tuy được Thế Tôn dùng lời tốt đẹp giáo hóa, nhưng Nan-đà vẫn tham luyến thú vui phóng dật nơi vương triều, mơ tưởng dục lạc nơi nàng Tôn-đà-lợi, đối với Phật pháp không ưa thích, muốn bỏ phạm hạnh, xả giới hoàn tục.


Lúc ấy, các Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:


-Tỳ-kheo Nan-đà không kham hành phạm hạnh, muốn cởi pháp y, sống đời tại gia.


Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:


-Ông hãy đến chỗ Nan-đà nói là Như Lai cho gọi.


Tỳ-kheo kia liền vâng lời Thế Tôn dạy, đến chỗ Nan-đà, nói:


-Thế Tôn cho gọi Nan-đà.


Lúc ấy Nan-đà sau khi nghe Tỳ-kheo kia nói, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên.


Thế Tôn bảo Nan-đà:


-Thế nào Nan-đà? Ông không thích tu phạm hạnh, muốn cởi pháp y, sống đời bạch y ư?


Nan-đà thưa:

 

-Thật vậy, Thế Tôn!

 

 Thế Tôn bảo:


-Vì sao, Nan-đà?

 

 Nan-đà thưa:


-Dục tâm con hừng hực, không thể tự kiềm được!

 

Thế Tôn bảo:


-Thế nào Nan-đà? Ông không phải là thiện gia nam tử xuất gia học đạo ư?

 

Nan-đà thưa:


-Thật vậy, Thế Tôn! Con là thiện gia nam tử, do lòng tin kiên cố nơi Thế Tôn mà đã xuất gia học đạo.


Thế Tôn bảo:


-Điều đó không thích hợp với ông, là thiện gia nam tử đã bỏ nhà xuất gia học đạo, tu hạnh thanh tịnh, sao lại bỏ chánh pháp mà muốn sống đời ô uế? Nan-đà nên biết, có hai pháp không biết chán đủ. Nếu có người nào sống theo hai pháp này thì không bao giờ biết chán đủ. Hai pháp gì? Dâm dục và uống rượu, đó gọi là hai pháp không biết chán đủ. Nếu người nào sống theo hai pháp này, thì không bao giờ biết chán đủ.


Do bởi hành quả này mà không thể đạt đến chỗ vô vi. Cho nên, này Nan-đà, hãy ghi nhớ bỏ hai pháp này, sau nhất định sẽ thành tựu quả báo vô lậu. Nan-đà, nay ông khéo tu phạm hạnh; con đường dẫn đến quả đạo, không thể đều không do đây.


Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:


Nhà lợp không kín, 

Trời mưa ắt dột.

Người không thực hành,

Dâm, nộ, si dột.


Nhà khéo lợp kín, 

Trời mưa không dột.

Người hay thực hành,

Không dâm, nộ, si.


Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm Nan-đà như vậy, Ngài nghĩ: “Nan-đà này phiền não quá mạnh, không thể giáo hóa bằng cách bình thường mà phá được phiền não ấy. Ta phải dùng phương tiện giống như người đời: Dùng lửa diệt lửa, dùng độc trị độc.”


Thế Tôn nghĩ như vậy rồi, dùng thần lực nắm tay Nan-đà, ẩn thân khỏi rừng Ni-câu-đà, xuất hiện đứng trên đỉnh núi Hương túy. Bấy giờ ở núi này, do gió thổi hai cây cọ sát nhau, phát ra lửa đốt cháy khu rừng, tỏa ra khói lửa rất nóng nực. Trong núi này có nhiều khỉ vượn số đến năm trăm con, chúng bị lửa đốt cháy lông, nằm lăn thân trên đất để tắt lửa.


Lúc ấy Thế Tôn thấy ở trong đàn vượn có một con vượn cái mù đôi mắt lấy tay phủi lửa trên thân, nên bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Ông có thấy con vượn cái mù mắt, ở trong đàn vượn, đang dùng tay phủi lửa trên thân không?

 

Nan-đà bạch Phật:


-Bạch Thế Tôn, con đang thấy việc ấy. 

 

Thế Tôn lại bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Ý ông nghĩ thế nào? Nàng Tôn-đà-lợi nhan sắc kiều diễm dễ thương, so với con vượn cái già này, ai đẹp hơn?

 

Nan-đà thưa:


- Giống như có người đả thương lỗ mũi con chó dữ, lại bôi thêm độc vào, con chó kia càng thêm dữ hơn. Ở đây cũng như vậy, Thích nữ Tôn-đà-lợi, nếu đem con vượn cái mù lòa để cùng so sánh, thì không thể làm thí dụ được. Giống như đống lửa lớn thiêu đốt sơn dã, còn dùng củi khô bỏ thêm vào thì lửa càng trở nên hừng hực. Ở đây cũng vậy, con nhớ cô gái họ Thích kia, không rời khỏi tâm được.


Bấy giờ Thế Tôn lại nắm tay Nan-đà, trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay biến khỏi núi này, đi đến cõi trời Ba mươi ba, đứng dưới cây Ba-lợi-chất-đa. Dưới gốc cây này có một tảng đá lớn tên là Bà-nô-câm-ma-la. 

 

- Khi ấy chư thiên trên Tam thập tam thiên đều tụ họp tại giảng đường Thiện pháp. Cách giảng đường Thiện pháp không xa, lại có cung điện, năm trăm ngọc nữ đang vui đùa với nhau, toàn là người nữ không có người nam. Nan-đà từ xa trông thấy năm trăm thiên nữ, đang ca hát kỹ nhạc vui đùa với nhau; bèn hỏi Thế Tôn:


- Đây là những đâu, mà có năm trăm thiên nữ ca hát kỹ nhạc vui đùa với nhau?

 

Thế Tôn bảo: - Nan-đà, ông tự đến đó mà hỏi!


Tôn giả Nan-đà liền đi đến chỗ năm trăm thiên nữ; thấy cung điện nhà cửa kia, trải hàng trăm thứ tọa cụ tốt; toàn là người nữ không có người nam. Tôn giả Nan-đà hỏi thiên nữ kia:


- Các cô, có đúng là thiên nữ đang cùng nhau vui đùa khoái lạc phải không?

 

Thiên nữ đáp:


- Chúng tôi có năm trăm người, tất cả đều thanh tịnh, không có phu chủ. Chúng tôi nghe Thế Tôn có đệ tử tên là Nan-đà, là con di mẫu của Phật. Ngài đang ở chỗ Như Lai tu phạm hạnh thanh tịnh, sau khi mạng chung sẽ sinh về cõi này làm phu chủ chúng tôi, cùng vui đùa với nhau.


Lúc ấy Tôn giả Nan-đà lòng rất vui mừng không thể tự chế, liền tự nghĩ: “Hiện tại ta là đệ tử Thế Tôn, lại là con di mẫu. Những thiên nữ này đều sẽ làm vợ cho ta.”


Bấy giờ, Nan-đà thối lui, đi đến chỗ Thế Tôn. Thế Tôn hỏi:

 

- Thế nào Nan-đà, Các ngọc nữ kia nói gì?

 

Nan-đà thưa:


- Các ngọc nữ kia đều nói, Chúng tôi đều không có phu chủ. Nghe có đệ tử Thế Tôn khéo tu phạm hạnh, sau khi mạng chung sẽ sinh về nơi này.


Thế Tôn lại bảo Nan-đà:


-Ý ông nghĩ thế nào? Nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi đẹp hay là năm trăm thể nữ này đẹp? 

 

Trưởng lão Nan-đà bạch Phật:


-Thưa Thế Tôn, Giống như con vượn cái mù lòa trên đỉnh núi ở trước, nếu đem con vượn cái già mù mắt so với Tôn-đà-lợi thì không bằng một phần trăm, cho đến một phần ngàn, cho đến một phần trăm ngàn, hay dùng toán số thế gian cũng không thể so sánh được. Nếu đem nàng Tôn-đà-lợi so với năm trăm thể nữ này thì gấp trăm lần, gấp ngàn lần cũng không bằng, cho đến gấp trăm ngàn lần, hay toán số thế gian thì cũng không thể nào so sánh được. 

 

Phật lại bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Ông có thích cùng với các thể nữ này vui chơi không? 

 

Nan-đà vui mừng hớn hở bạch Phật:


-Thưa Thế Tôn, ý con thật muốn cùng với năm trăm thể nữ này vui chơi hoan lạc.


Phật lại bảo Nan-đà:


-Ông không thể dùng thân phàm để cùng các Thiên nữ hưởng lạc. Nếu muốn vậy, ông phải hoan hỷ ở trong pháp của Ta tu phạm hạnh. Ta sẽ cho ông biết: Ngày nay nếu ông tùy thuận theo pháp của Ta, tu hành thanh tịnh, sau khi qua đời, vào đời sau quyết định sẽ thọ báo thân sinh ở cõi này, cùng với năm trăm Thiên nữ vui chơi, hưởng lạc.


Nan-đà nghe Phật dạy như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, bạch Phật:


-Con xin từ nay trở đi, ở trong giáo pháp của Phật ham thích tu phạm hạnh thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, con ngày nay đã có báo thân này, con thật sự muốn vào đời vị lai sinh nơi thế giới này để cùng với năm trăm Thiên nữ ấy hưởng lạc.




Thế Tôn nắm lấy tay Trưởng lão Nan-đà biến mất nơi cõi trời Ba mươi ba, trở về rừng Ni-câu-đà. Khi ấy Nan-đà nghĩ thế này: “Thế Tôn đã hứa cho ta ở đời vị lai cùng năm trăm Thiên nữ kia thọ hưởng thư vui.” Vì vậy, Nan-đà đem hết thân tâm chánh niệm tu phạm hạnh thanh tịnh, điều phục cấc căn, tiết chế ăn uống, đầu hôm cuối hổm tụng kinh hành thiền, dũng mãnh tinh tấn, không cùng với người khác đàm luận giỡn cười, tâm không rộn ràng dao động, miệng không nói lời thêu dệt, phát hạnh tinh tấn, giữ bốn oai nghi, ưa ở chỗ vắng lặng, điều phục các căn, thành tựu chánh niệm vi diệu tối thắng.


Thuở ấy Nan-đà muốn quán phương Đông, thân tâm an định, ý chí dũng mãnh, đã được chánh niệm rồi mới bắt đầu quán phương Đông. Trong khi quán như vậy không có sầu não, không có tối tăm, với các pháp bất thiện luôn luôn quán sát không bị rơi vào, cũng không bị mê hoặc.


Khi muốn quán phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương trên, phương dưới, thân tâm cũng an định, ý chí dũng mãnh. Khi quán các phương cũng không bị sầu não, tốì tăm, đốì với các pháp bất thiện luôn luôn quán sát không bị rơi vào, cũng không mê hoặc như trên.


Bấy giờ có các Tỳ-kheo đồng tu với Nan-đà nói:


-Này Trưởng lão Nan-đà, tại sao trước kia Trưởng lão không thúc liễm các căn, đối với sự ăn uống không biết tiết chế, thường tìm cầu đồ ngủ: giường nằm, mền nệm tuyệt hảo, ngủ nghỉ li bì không biết nhàm chán, hoặc có khi thì cười cợt vui đùa, tâm ý không an định, ăn nói ngang trái thêu dệt, chưa từng biết tinh cần, luôn luôn giải đãi, cũng không có chánh niệm, phần nhiều xao lãng, đánh mất oai nghi, không có thiền định, không được nhiếp tâm, các căn phóng dật... không thể kể xiết. Mà ngày nay Trưởng lão điều phục các căn, ăn uống tiết lượng, đầu hôm cuối hôm không từng ngủ nghỉ, lại không ngông nghênh, thúc liễm thân tâm, lại không nói thêm bớt, tinh tấn dũng mãnh, chánh niệm siêng năng, đã được thiền định, tâm không phóng dật, các căn không buông lung... ngày nay vì sao Trưởng lão được như vậy?

 

Bấy giờ Nan-đà thưa các Tỳ-kheo:

 

-Này các vị Trưởng lão, các vị phải biết, Thế Tôn nói với ta rằng nếu muôn đời sau sống chung với năm trăm Thiên nữ đẹp ở cõi trời Ba mươi ba vui chơi hoan lạc thì nên siêng năng tu phạm hạnh trong giáo pháp của Ngài.


Bấy giờ các Tỳ-kheo thân hữu đồng hành của Nan-đà nhạo cười chế diễu, nói với nhau:


-Trưởng lão Nan-đà ra sức làm thuê cho Thế Tôn, ở trong giáo pháp của Ngài siêng năng tu phạm hạnh để mưu cầu quả báo tương lai. Sở dĩ Nan-đà ở trong giáo pháp của Phật tu phạm hạnh chỉ vì mưu cầu đời tương lai sống chung với năm trăm Thiên nữ đẹp mà thôi.


Từ đó về sau, các Tỳ-kheo bạn hữu Nan-đà thường gọi Nan-đà là người làm thuê.


Bấy giờ, Thế Tôn thấy Nan-đà đã vì các Thiên nữ mà tu các phạm hạnh, lúc ấy Thế Tôn lại nghĩ: “Nay Ta sẽ dùng lửa đề diệt lửa Nan-đà.” Trong khoảnh khắc giống như lực sĩ co duỗi cánh tay, Thế Tôn tay phải nắm cánh tay Nan-đà, dẫn đến trong địa ngục. Lúc này chúng sanh địa ngục đang chịu ngần ấy khổ não. Khi ấy trong địa ngục có một cái chảo đồng lớn, trống rỗng, không có người, dưới chảo đồng lửa đốt cháy phừng phực, chảo bị nung đỏ như lửa. Thấy vậy, Nan-đà sinh lòng sợ hãi, lông áo đều dựng đứng, đến trước Thế Tôn thưa:


-Ở đây mọi chúng sanh đều chịu khổ đau, chỉ có độc nhất cái chảo này trống rỗng không có người!


Thế Tôn bảo:


-Đây gọi là địa ngục A-tỳ.


Bấy giờ, Nan-đà lại càng sợ hãi hơn, lông áo đều dựng đứng lên, bạch Thế Tôn:


-Đây là địa ngục A-tỳ, mà sao có một chỗ trống không có tội Nhân?

 

 Thế Tôn bảo:


-Ông đến hỏi các ngục tốt kia là chảo đồng này vì ai mà nấu sôi như vậy? 

 

Trưởng lão Nan-đà nghe Phật bảo như vậy, liền bạch:


-Thưa Thế Tôn, y như lời Ngài dạy. 

 

Nan-đà đi đến chỗ các ngục tốt hỏi:

 

-Thế nào ngục tốt, đây là ngục gì mà trống rỗng, không có người? Và cái chảo đồng lớn này vì ai mà nấu sôi như vậy? 

 

Ngục tốt trả lời Nan-đà:


-Phật có người em con di mẫu tên là Nan-đà. Vì người ấy mà nấu đốt chảo này. 


Nan-đà lại hỏi:

 

-Các ông không nghe Như Lai ngày trước có hứa với Nan-đà là nếu muốn thọ hưởng lạc thú với năm trăm Thiên nữ thì nên tu phạm hạnh, sau sẽ sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba hay sao?

 

Các ngục tốt nói:


-Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đã biết như vậy. Đệ tử của Phật Thích-ca tên là Nan-đà, ở chỗ Như Lai tu phạm hạnh thanh tịnh, sau khi thân hoại mạng chung sinh về chỗ lành trên trời. Ở đó, ông ta sống lâu nghìn tuổi, tự vui đùa khoái lạc. Và chúng tôi lại nghe rằng ông ta sau khi sống trên cõi trời Ba mươi ba, mạng chung ở đó sẽ bị đọa lạc đầu thai nơi địa ngục A-tỳ này.


Bấy giờ Tôn giả Nan-đà nghe nói như vậy trong lòng hết sức sợ hãi, toàn thân lông áo đều dựng ngược, tự suy nghĩ: “Cái chảo trống này chính là dành cho ta chăng? Theo tuần tự rồi ta sẽ bị cái khổ này. Vậy ta không cần quả báo thọ hưởng thú vui với năm trăm Thiên nữ đẹp.”


Rồi Nan-đà trở lại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân bạch ngài:

 

-Thế Tôn! Xin nhận sự sám hối tội của chính con, vì không lo tu phạm hạnh, lại còn xúc nhiễu Như Lai!


Bấy giờ Tôn giả Nan-đà, liền nói kệ này:


Đời người không đủ quý, 

Tuổi trời rồi cũng tàn.

Địa ngục chua, thống khổ.

Chỉ có vui Niết-bàn.


Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn giả Nan-đà:


 -Lành thay! Lành thay! Như những gì ông đã nói. Niết-bàn rất là khoái lạc. Nan-đà, cho phép ông sám hối. Ông kẻ ngu si đã tự biết là mình có lỗi đối với Như Lai. Nay Ta nhận sự hối lỗi của ông, sau này chớ tái phạm.


Lúc ấy Thế Tôn nắm tay Trưởng lão Nan-đà biến mất nơi địa ngục, lại xuất hiện nơi rừng Ni-câu-đà. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Nan-đà: – Này Nan-đà, nay ông hãy tu hành hai pháp. Hai pháp gì? Chỉ và quán. Lại phải tu thêm hai pháp. Hai pháp gì? Sinh tử không đáng vui, biết Niết-bàn là an lạc. Đó là hai pháp. Lại tu thêm hai pháp. Hai pháp gì? Trí và biện.


Bấy giờ, Thế Tôn thuyết giảng cho Nan-đà bằng nhiều pháp khác nhau. Tôn giả Nan-đà sau khi thọ lãnh những lời dạy của Thế Tôn rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Thế Tôn, rồi thối lui ra về; đi đến rừng An-đà. Thuở ấy Nan-đà bị các bạn hữu gọi là người làm thuê cho Phật, bị trêu ghẹo chế diễu, chê cười, lại thêm thấy cảnh địa ngục nên Nan-đà lấy làm xấu hổ lo sợ, sinh nhàm chán, tự ăn năn hối cải, tìm chỗ vắng vẻ, đi đứng thiền tọa một mình, lại không còn phóng dật, tinh tấn dũng mãnh. Tôn giả Nan-đà ngồi kiết già dưới một gốc cây, chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt, tư duy những lời dạy của Như Lai.


Bấy giờ Tôn giả Nan-đà ở nơi vắng vẻ, lúc nào cũng tư duy về những lời dạy của Như Lai không bỏ quên giây phút nào, vì mục đích gì mà thiện gia nam tử này, do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, tu phạm hạnh vô thượng, cho đến biết như thật rằng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm, không còn tái sinh đời sau nữa. Lúc bấy giờ Tôn giả Nan-đà trở thành vị A-la-hán. Sau khi chứng quả A-la-hán, Tôn giả rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Tôn giả Nan-đà bạch Thế Tôn:


-Bạch Thế Tôn, con nay xin trả lại cái ân mà Phật đã hứa ngày trước. Ngày trước con nhận lấy lời nói của Như Lai chính là vì năm trăm Thiên nữ đẹp. Vậy con xin Thế Tôn từ bỏ việc ấy.


Bấy giờ Phật lại bảo Trưởng lão Nan-đà:


-Chẳng phải đến ngày nay Ta mới xả bỏ việc ấy cho ông, mà từ khi ông bắt đầu xướng lên: “Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thân đời sau”, ngay khi ấy Ta đã xả bỏ việc ấy cho ông rồi.


Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:


Nay Ta thấy Nan-đà, 

Tu hành pháp Sa-môn; 

Các ác đều đã diệt, 

Không mất hạnh đầu-đà.


Khi ấy các Tỳ-kheo cùng sống với Nan-đà chưa biết Nan-đà đã dứt sạch các lậu, nên vẫn đối xử với Nan-đà như ngày nào như diễu cợt, biếm nhẽ, nói thế này: “Trưởng lão Nan-đà ở nơi Thế Tôn để làm thuê vì cầu quả báo, muốn sống chung với năm trăm Thiên nữ đẹp, nên siêng tu phạm hạnh.”


Bấy giờ Thế Tôn suy nghĩ: “Các Tỳ-kheo này chưa biết Nan-đà đã dứt sạch các lậu, vẫn đối xử như khi còn các lậu, như rêu rao: “Trưởng lão Nan-đà chỉ vì năm trăm Thiên nữ đẹp mà tu phạm hạnh.” E rằng các thầy này mắc những tội lỗi. Hôm nay, Ta nên ở trước đại chúng tuyên bố việc Nan-đà đã dứt sạch các lậu.”


Thế Tôn do nhân duyên này cho nhóm họp tất cả Tỳ-kheo Tăng. Lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:


-Này các Tỳ-kheo, trông thấy Nan-đà có ai có thể chê là không khôi ngô không? Thầy ấy có thân thể mềm mịn, sức khỏe hơn người, ý dâm rất mạnh, ai có thể hơn Nan-đà được?

 

-Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Nan-đà đóng kín các căn, ăn uống biết đủ, ban đêm không để mất thời khóa, tâm định bất loạn. Nan-đà có thể tu phạm hạnh thanh tịnh suốt đời.


Tỳ-kheo Nan-đà làm sao có thể đóng kín các căn? Ðối với Tỳ-kheo Nan-đà, khi mắt thấy sắc thì ý không tham đắm. Giả sử thấy sắc thì vị ấy như người không đủ nhãn căn, sẽ nghĩ đến pháp ác, bất thiện, vô minh, lo buồn, ý không hướng đến nên phòng hộ được nhãn căn.


Tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc chạm với pháp, biết rồi không sanh đắm nhiễm. Giả sử ý căn phát sanh nhiễm trước, vị ấy sẽ nghĩ đến pháp ác, bất thiện, vô minh, lo buồn, ý không hướng đến thì phòng hộ được ý căn.


Ðó là cách Tỳ-kheo Nan-đà đóng kín các căn.


Tỳ-kheo Nan-đà làm cách nào để biết đủ trong việc ăn uống?

 

Tỳ-kheo Nan-đà biết đủ khi ăn thức ăn, không có tâm tham ăn, không cầu có nhan sắc và sức mạnh, không có ý mong mềm mại. Lý do ăn là vì muốn thân thể tồn tại lâu dài, để diệt bệnh cũ và không sanh bệnh mới, và việc hành đạo được an vui.


Giống như có người bị lở loét phải dùng dầu để bôi lên. Lý do bôi dầu là muốn cho vết loét được lành. Cũng vậy, Tỳ-kheo Nan-đà biết đủ trong ăn uống, không có tham ăn, cho đến thích được hành đạo.


Ví như có người bôi mỡ vào cốt bánh xe, lý do bôi mỡ là vì chở nặng. Cũng vậy, Tỳ-kheo Nan-đà ăn uống biết đủ, không có tham ăn cho đến thích được hành đạo. Ðó là cách Tỳ-kheo Nan-đà biết đủ trong ăn uống.


Tỳ-kheo Nan-đà không để mất thời khóa vào ban đêm bằng cách nào? - Ban ngày Tỳ-kheo Nan-đà đi kinh hành, tọa thiền. Ban đêm cũng kinh hành, tọa thiền. Ðầu đêm vị ấy kinh hành, tọa thiền, chế phục tâm không cho ngủ. Giữa đêm vị ấy xếp y thượng thành bốn lớp trải trên ghế, gối đầu bằng Tăng-già-lê, hông phải sát đất, hai bàn chân gác lên nhau, cẳng chân duỗi thẳng, giữ ý nghĩ nơi ánh sáng. Ðến khi nào mới sáng? Cuối đêm vị ấy liền dậy kinh hành, tọa thiền, chế phục tâm. Ðó là cách Tỳ-kheo Nan-đà không để mất thời khóa vào đầu đêm, cuối đêm.


Tỳ-kheo Nan-đà làm sao để niệm định không loạn? - Tỳ-kheo Nan-đà nếu muốn nhìn phía Ðông thì giữ thân ngay thẳng, vừa tư duy vừa nhìn về phía Ðông, không có ý loạn động. Nếu muốn nhìn phía Nam, Tây, Bắc thì cũng giữ thân ngay thẳng, vừa tư duy vừa nhìn, không có ý loạn động.


Tỳ-kheo Nan-đà nếu có thọ, tưởng xuất hiện thì luôn tỉnh thức theo dõi; hành, thức cũng vậy. Thọ, tưởng... chưa phát sanh thì không cho phát sanh. Thọ, tưởng... đã phát sanh thì lần lượt diệt trừ. Ðó là cách Tỳ-kheo Nan-đà niệm định không loạn.


-Này các Tỳ-kheo, nếu người ta nói: có nam tử tốt đẹp nào, thì Nan-đà chính là người ấy. Nếu có người nào tuấn tú cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đại dũng mãnh nào, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người thân thể dịu dàng, lại cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người các căn vắng lặng không tán loạn nào, lại cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đối với sự ăn uống biết tiết chế, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đầu hôm cuối đêm không ngủ nghỉ nào, thì cũng chính là Tỳ-kheo Nan-đà ngày nay. Nếu họ nói có người nào sinh từ ba chủng tộc thanh tịnh thì cũng chính là Tỳ kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người chứng sáu phép thần thông nào, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu nói có người được tám định giải thoát nào thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.


Thế Tôn cũng bảo các Tỳ-kheo:

 

-Này các Tỳ-kheo, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn thì Tỳ-kheo Nan-đà này là bậc nhất.


Khi ấy ở trước mọi người, Thế Tôn khen Nan-đà rằng:


- Lành thay! Nan-đà có được đầy đủ phạm hạnh như vậy. Người thực hành phạm hạnh được quả báo, được công đức lớn.


Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo ca tụng rằng: “Đức Thế-tôn ra đời giáo hóa, thật kỳ diệu thay! Thật hy hữu thay!” 


Đức Phật bảo: “Chẳng phải hôm nay như thế, từ xa xưa, cũng đã như thế”. 


Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Từ xa xưa, cũng đã như thế, chuyện ấy ra sao, xin đức Thế-tôn nói cho chúng con được biết”. 


Đức Phật bảo: “Ngày xưa, nước Ca-thi có Quốc vương tên là Mãn Diện, bên nước lân bang Tỳ-đề-hy có dâm nữ nhan sắc tuyệt vời. Hai nước ấy vốn thù ghét nhau. Nịnh thần của Quốc vương Ca-thi tâu lên: “Bên nước Tỳ-đề-hy có dâm nữ xinh đẹp tuyệt thế vô song”. Quốc vương nghe xong, đâm ra mê mẩn, sai sứ sang cầu xin. Nước ấy không chịu. Quốc vương lại sai sang năn nỉ: “Xin tạm rước về bốn năm hôm, rồi sẽ đưa sang trả lại”. Quốc vương nước ấy kêu dâm nữ dặn dò: “Nhan sắc và mánh khéo, ngươi đều có đủ, khá liệu cách mê hoặc Quốc vương Ca-thi, không thể rời ngươi nửa bước nửa giây”. Rồi sai lên đường. Mấy hôm sau, lại cho gọi về: “Sắp có tế lớn, tạm thời đón về. Tế xong, sẽ đưa sang”. Quốc vương Mãn Diện đành phải cho về. Nghe tế xong, Quốc vương sai sứ sang đón. Quốc vương Tỳ-đề-hy đáp: “Ngày mai mới đi được”. Qua ngày mai, không thấy cho đi. Cứ thế, lần lữa gạt hoài. Quốc vương Mãn Diện quá si tình, toan dẫn mấy kẻ hầu sang thẳng nước ấy tìm kiếm dâm nữ. Đình thần khổ công can gián, Quốc vương nhất định không nghe. Bấy giờ, trong núi Tiên Nhân có con khỉ chúa thông minh, hiểu biết rất nhiều, chẳng may vừa chết vợ, liền chọn một con khỉ cái đem về. Bầy khỉ nổi giận, la hét rân lên: “Khỉ cái ấy là của chung toàn bầy, cớ sao chiếm giữ một mình?” Khỉ chúa thấy không yên thân, ôm khỉ cái chạy thẳng tới hoàng cung của Quốc vương Mãn Diện. Bầy khỉ hùa nhau rượt theo, vào được đại nội. Bọn chúng nổi quạu, tuôn ngói, đập tường, phá phách lung tung, không ai cản nổi. Quốc vương hỏi khỉ chúa: “Tại sao nhà ngươi không chịu trả khỉ cái về với bầy?” Khỉ chúa đáp: “Tôi góa vợ, không còn vợ nào, làm sao trả được!” Quốc vương bảo: “Nay bầy khỉ phá phách ta như thế, liệu ngươi còn chưa chịu trả?” Khỉ chúa hỏi lại: “Chuyện ấy không nên chăng?” Quốc vương đáp: “Không nên”. Khỉ chúa hỏi đi hỏi lại ba lần, Quốc vương đều đáp không nên. Bấy giờ khỉ chúa mới nói rằng: “Trong cung có đến tám vạn bốn nghìn mỹ nữ, Quốc vương không đủ yêu thương, còn sang nước cừu địch tìm dâm nữ. Tôi đã mất vợ, chỉ có độc nhất con khỉ cái này, Quốc vương lại bảo không nên! Lai nữa, muôn dân đều trông cậy vào Quốc vương để sống còn, chỉ vì một dâm nữ, tại sao Quốc vương toan bỏ hết quốc gia đại sự? Quốc vương nên biết rằng dâm nữ vốn khổ nhiều vui ít. Giống như ngược gió cầm đuốc lớn, ngu si không chịu buông tay, chắc chắn sẽ bị phỏng nặng. Dâm nữ dơ uế chẳng khác đống phân kia. Dâm dục khiêu khích ngoài da, mỏng manh che đậy. Dâm nữ phản phúc như rắn độc thoa phân. Dâm dục là kẻ cướp tham tàn giả vờ thân thiết. Dâm dục chỉ là vay nợ, chắc chắn phải trả lãi nhiều. Dâm dục thật đáng gớm ghiếc, tựa như hố xí mọc hoa. Dâm dục giống như ghẻ ngứa đem gãi bên lửa, càng thấy xốn xang hơn. Dâm dục như chó đói gặm xương khô, tự nuốt dãi mình, cho là ngọt béo, đến khi mỏ mòn răng rụng, vẫn không chán chê. Dâm dục giống như khát quá, uống nhằm nước biển, càng bị khát hơn. Dâm dục giống như thịt thối, lũ kên tranh nhau. Dâm dục giống cá giành mồi, háu ăn mất mạng. Tai họa của dâm dục thật lớn vô cùng”. Này, các Tỳ-kheo! Khỉ chúa đương thời chính là ta đấy. Quốc vương Mãn Diện đương thời, chính là Nan-đà. Dâm nữ đương thời chính là Tôn-đà-lợi. Lúc bấy giờ, ta đã cứu vớt Nan-đà khỏi chổ dâm dục ô uế xấu xa, nay ta lại ra tay cứu vớt khỏi vòng sinh tử lẩn quẩn”.


Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Đức Phật thuyết giảng, hoan hỷ tín thọ lời dạy.



Một thời gian sau, bấy giờ, Tôn giả Nan-đà ở trong vườn Tượng hoa, tại thành Vương xá. Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà ở nơi vắng vẻ, tự nghĩ: “Như Lai xuất hiện ở đời, thật là khó gặp; ức kiếp mới xuất hiện, thật không thể gặp. Một thời thật lâu dài, Như Lai mới xuất hiện. Giống như hoa Ưu-đàm-bát thỉnh thoảng mới xuất hiện. Cũng vậy, Như Lai xuất hiện ở đời, thật là khó gặp; ức kiếp mới xuất hiện, nên thật là khó gặp. Trường hợp này cũng khó gặp: Tất cả các hành đều tĩnh chỉ, ái diệt tận không còn, cũng không nhiễm ô, diệt tận, Niết-bàn.”


Bấy giờ có một thiên tử Ma Hành, biết những ý nghĩ trong tâm Tôn giả Nan-đà, liền đến chỗ Thích nữ Tôn-đà-lợi; bay trên hư không, dùng kệ tán thán rằng:


Nay cô hãy vui mừng, 

Trang điểm, tấu ngũ nhạc.

Nan-đà bỏ pháp phục, 

Sẽ đến cùng hưởng vui.


Thích nữ Tôn-đà-lợi, sau khi nghe những lời này của ông trời, vui mừng phấn khởi, không thể tự chế được, liền tự trang sức, sửa sang dọn dẹp nhà cửa, trải tọa cụ tốt, trổi kỹ nhạc như lúc Nan-đà còn ở nhà không khác.


Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc tập họp tại giảng đường Phổ hội, nghe đồn Tỳ-kheo Nan-đà trả lại pháp phục sống đời gia nghiệp. Vì sao vậy? Vì có vị trời ở không trung mách bảo cho vợ ông biết. Vua Ba-tư-nặc sau khi nghe những lời này xong, trong lòng ưu sầu, liền đóng xe bạch tượng, đi đến khu vườn kia. Đến nơi rồi, vua đi vào trong ao Hoa tượng. Từ xa, vua thấy Tôn giả Nan-đà, liền đến trước chỗ Nan-đà, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên.


Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà hỏi vua Ba-tư-nặc:


-Đại vương, vì sao đến đây mà mặt mày đổi sắc? Lại có việc gì đến chỗ tôi vậy?

 

Vua Ba-tư-nặc đáp:


-Tôn giả nên biết, nơi giảng đường Phổ hội, tôi nghe Tôn giả xả bỏ pháp phục trở về làm bạch y. Nghe xong những lời này, nên tôi đến đây. Không biết Tôn giả chỉ dạy thế nào?

 

Lúc đó Tôn giả mỉm cười, rồi từ từ bảo vua:


-Không thấy, không nghe, cớ gì Đại vương nói những lời này? Đại vương, há không nghe từ Như Lai rằng tôi đã trừ các kết, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa, đã biết như thật, nay thành A-la-hán, tâm được giải thoát sao?

 

Vua Ba-tư-nặc nói:


-Tôi chưa nghe từ Như Lai nói Tỳ-kheo Nan-đà sinh tử đã dứt, đắc A-la-hán, tâm được giải thoát. Vì sao vậy? Vì có vị trời đến báo cho cô gái họ Thích Tôn-đà-lợi như vậy. Phu nhân Tôn-đà-lợi sau khi nghe những lời này rồi, liền trổi kỹ nhạc, sửa sang phục sức, trải các tọa cụ. Tôi nghe những lời này rồi liền đến chỗ Tôn giả.


Nan-đà bảo:

 

-Vua không biết, không nghe, sao Đại vương lại nói những lời này? Các Sa-môn, Bà-la-môn, không ai là không vui thú với cái vui do tịch tĩnh, cái vui Thiện thệ, cái vui của Sa-môn, cái vui Niết-bàn, mà không tự quán sát cái dâm này như hầm lửa, lại phải đi đến đó! Việc này không đúng. Dâm dục như bộ xương, như miếng thịt, như đống đá, như mật bôi trên dao, chỉ mắc phải tham cái lợi nhỏ, không lo cái tai hoạn về sau. Cũng như trái xum xuê làm cho cành gãy; cũng như đồ vay mượn không bao lâu rồi sẽ phải bồi hoàn; cũng như rừng kiếm, cũng như thuốc độc hại, cũng như lá độc, như hoa quả độc. Đã quán sát dâm dục này cũng lại như vậy, mà ý còn nhiễm trước; việc này không xảy ra. Từ dục như hầm lửa cho đến quả độc, không quán sát những điều này mà muốn vượt qua được dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu mà muốn được nhập vào vô dư Niết-bàn giới mà Bát-niết-bàn, thì việc này không xảy ra. Đại vương, nên biết, những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã quán sát đây là cái vui của tịch tĩnh, vui Thiện thệ, vui Sa-môn, vui Niết-bàn, thì điều ấy tất xảy ra. Những vị ấy do quán sát như vậy, hiểu rõ dâm dục như hầm lửa, giống như bộ xương, đống thịt, mật bôi đao bén, trái xum xuê làm cành gãy, vật mượn không lâu phải trả; cũng như rừng kiếm, như thuốc độc hại; đã quán sát, đã biết rõ, trường hợp ấy có xảy ra; tức là, đã hiểu rõ, biết chỗ nổi dậy của lửa dâm, thì liền có thể vượt qua được dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu, điều này tất xảy ra. Các vị ấy đã vượt qua dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu, việc này tất như vậy.


-Vậy thế nào Đại vương, lấy gì để thấy, gì để biết mà nói như vậy? Này Đại vương, nay tôi đã thành A-la-hán, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa, tâm được giải thoát.


Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc lòng tràn đầy vui vẻ, tâm thiện phát sinh, bạch Tôn giả Nan-đà rằng:


-Nay tôi không còn chút mảy may hồ nghi nào nữa, mới biết Tôn giả thành A-la-hán. Nay xin cáo từ, vì việc nước đa đoan.

 

Nan-đà đáp:


-Nên biết đúng thời.


Vua Ba-tư-nặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân, rồi cáo lui ra về.



Vua Ba-tư-nặc đi chưa bao lâu, Ma thiên kia đến chỗ Tôn giả Nan-đà, đứng giữa hư không, lại dùng kệ này nói với Nan-đà rằng:



Phu nhân, mặt như trăng; 

Thân đeo vàng, chuỗi ngọc; 

Nhớ dung nhan dáng kia, 

Ngũ nhạc hằng vui hưởng.


Gảy đàn, đánh trống ca, 

Âm vang thật uyển chuyển, 

Khiến trừ các sầu lo.

Vui gì trong rừng này?


Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà liền tự nghĩ: “Đây là trời Ma Hành.” Biết vậy rồi, lại dùng kệ đáp:


Xưa ta có tâm ấy, 

Dâm dật không biết chán; 

Bị dục trói vào trong, 

Không biết già, bệnh, chết.


Ta qua vực ái dục, 

Không ô, không nhiễm trước; 

Tươi thắm kia rồi khổ; 

Nay vui pháp chân như.


Ta đã trừ các kết, 

Dâm, nộ, si đều sạch;

Không sống pháp ấy nữa.

Người ngu nên biết rõ.

 

Sau khi trời Ma Hành nghe những lời này, trong lòng ưu sầu, liền biến mất.


Lúc ấy, các Tỳ-kheo đem nhân duyên này bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:


-Này các Tỳ-kheo, thời hiện tại trong Giáo Pháp của ta, Tỳ-kheo đoan chánh đẹp đẽ không ai hơn Tỳ-kheo Nan-đà. Có các căn trầm lặng cũng chính là Tỳ-kheo Nan-đà. Không có dục tâm cũng là Tỳ-kheo Nan-đà. Không có sân nhuế cũng là Tỳ-kheo Nan-đà. Không có ngu si cũng là Tỳ-kheo Nan-đà. Thành A-la-hán cũng là Tỳ-kheo Nan-đà. Vì sao vậy? Vì Tỳ-kheo Nan-đà đẹp trai, các căn tịch tĩnh.


Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:


-Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ nhất đoan chánh đẹp đẽ, đó chính là Tỳ-kheo Nan-đà; các căn tịch tĩnh cũng là Tỳ-kheo Nan-đà.


Lúc ấy các Tỳ-kheo hỏi Phật:


-Bạch Thế Tôn, như vậy Tỳ-kheo Nan-đà này đời trước đã trồng căn lành gì, nhờ căn lành ấy mà ngày nay sinh trong nhà họ Thích hết sức giàu sang, của cải rất nhiều, thân thể đẹp đẽ dễ thương, đến nay được Thế Tôn thọ ký: “Trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn bậc nhất là Tỳ-Kheo Nan-đà này.”?

 

Nghe các Tỳ-kheo hỏi như vậy, Phật bảo:


 -Này các Tỳ-kheo, Ta nhớ đời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, thuở ấy có một Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kinh đô, nơi vua ở tên là Bàn-đầu-ma-để. Bấy giờ Phật Tỳ-bà-thi cùng với chúng Tỳ-kheo sáu ngàn người đều là bậc A-la-hán, ngự trong thành này. Vị vua thuở ấy tên là Bàn-đầu. Vua tôn trọng, cung kính cúng dường Phật và chưng Tỳ-kheo đủ các thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc thang và phòng xá.


Thuở ấy, trong thành Bàn-đầu-ma-để có một đồng tử Bà-la-môn xây cất căn phòng tắm ấm, cúng dường cho Phật và chư Tăng sử dụng. Đồng tử Bà-la-môn thấy các Tỳ-kheo từ phòng tắm ấm đi ra, thân thể thanh tịnh, hết sức thơm tho trong sạch, không chút mùi hôi. Thấy vậy vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, đồng tử phát tâm: “Nguyện ở đời vị lai, thân tôi được thanh tịnh, không có chút cấu uế, hôi hám, giống như thân các Tỳ-kheo này, thanh tịnh thơm tho không chút mùi hôi.”


Sau khi Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, nhà vua Bàn-đầu xây tháp bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê để thờ xá-lợi Phật. Lúc ấy đồng tử Bà-la-môn chỉ huy công trình xây tháp. Sau khi xây tháp xong, đồng tử phát nguyện: “Ở đời vị lai tôi thường được gặp Thế Tôn như thế này. Bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi đều lãnh hội, chứng biết không trái pháp ấy. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh các đường ác.” Do vậy sau khi đồng tử này qua đời, thường sinh lên cõi trời hay trong nhân gian. Sau đó, có đời đồng tử ấy sinh vào nhà trưởng giả đại phú, được cha mẹ nuôi dưỡng, lần lần lớn khôn, mọi mặt đều được thành tựu.


Thuở ấy, nhà của đồng tử có một vị Bích-chi-phật làm vị thầy trong nhà nên thường lui tới. Vị Bích-chi-phật ấy đoan chánh dễ thương, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu. Đồng tử thường đem bốn việc cúng dường cho Bích-chi-phật suốt đời không thiếu. Vị Bích-chi-phật mãn tuổi thọ, sau đó nhập Niết-bàn.


Bấy giờ trưởng giả thấy vị Bích-chi-phật nhập Niết-bàn, đem thi hài đủng như pháp làm lễ hỏa thiêu, thâu xá-lợi, dùng đất đá xây tháp và tô tro bùn bên ngoài. Trên tháp, trưởng giả treo các chuỗi anh lạc để trang nghiêm, rồi phát lời thệ nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai gặp được Bích-chi-phật Thế Tôn như vậy và giáo pháp của Ngài thuyết giảng, tôi nghe rồi liền được chứng ngộ, ghi nhớ không quên. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác. Cũng nguyện thân tôi đoan chánh dễ thương, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu, được mọi người trông thấy hoan hỷ, không biết chán, như vị Đại tiên này.”


Trưởng giả ấy sau khi qua đời, chưa từng sinh vào các đường ác, luôn luôn sinh vào cõi trời, người, lưu chuyển như vậy trong một thời gian lâu, sau lại sinh làm con vua Cát-lợi-thi ở nước Ba-la-nại. Thuở ấy có Phật hiệu là Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Thế Tôn ấy tùy cơ trụ ở đời rồi sau đó diệt độ.


Bấy giờ vua Cát-lợi-thi dùng toàn bảy báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích chân châu, san hô và mã não để xây tháp. Bên ngoài tháp được xây bằng gạch lớn. Tháp này cao một do-tuần, ngang dọc Đông, Tây rộng nửa do-tuần. Có khắc bài minh gọi là Đạt-xá-bà-lăng-ca.


Lúc bấy giờ vua Cát-lợi-thi có bảy vương tử, họ đồng tâu vua: “Lành thay! Tâu Đại vương, xin phụ vương biết cho, chúng con muốn mỗi người cúng một chiếc lọng lớn để che lên trên tháp xá-lợi của Phật Ca-diếp Thế Tôn Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lành thay! Tâu Đại vương, xin ngài cho phép.”


Nhà vua bảo: “Ta cho phép, tùy ý các con.”


Bấy giờ bảy vương tử, mỗi người làm một chiếc lọng: Hoặc bằng vàng, hoặc bằng bạc, bằng mã não... che trên tháp.


Vị vương tử thứ hai trong số bảy vương tử làm chiếc lọng bằng vàng che trên tháp và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai thường gặp được Bích-chi-phật Thế Tôn. Những giáo pháp của Ngài dạy, tôi nguyện được lãnh hội, nhớ mãi không quên. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác và nguyện được sắc thân như vàng.”


Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:


 -Này các Tỳ-kheo, nếu ai phân vân về đồng tử Bà-la-môn ở trong thành Bàn-đầu-ma lúc ấy cúng dường phòng tắm ấm cho Phật và chúng Tăng và phát nguyện: “Ở đời vị lai được thân thanh tịnh, thơm tho không cấu uế, giống như những Tỳ-Kheo ấy”, rồi sau khi Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác diệt độ, đồng tử này xây tháp cung dường, thì các vị chớ nghĩ gì khác, đồng tử đó tức là tiền thân của Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.


Này các Tỳ-kheo, nếu ai có tâm nghi ngờ vị trưởng giả trọn đời cúng dường vị Bích-chi-phật, rồi sau khi vị Bích-chi-phật diệt độ, trưởng giả dùng đất đá, tro xây tháp và các chuỗi anh lạc trang hoàng cúng dường xá-lợi, lại nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai được báo thân đoan chánh, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu không thiếu, giống như vị Tiên nhân Bích-chi-phật này”, đó là người nào? Các ông chớ phân vân gì khác, trưởng giả này cũng là tiền thân của vị Tỳ-kheo Nan-đà này.


Này các Tỳ-kheo, nếu ai phân vân vị vương tử thứ hai của vua Cát-lợi-thi, vì Phật Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác làm một chiếc lọng bằng vàng che trên tháp, chớ có nghi ngờ gì khác, vương tử đó cũng là tiền thân của Tỳ-kheo Nan-đà này.


Tỳ-kheo Nan-đà thuở xưa đã vì Phật Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo xây nhà tắm ấm, đúng như pháp cúng dường và nhân đó phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được thân thanh tịnh, thơm tho, không cấu uế, giống như thân các Tỳ-kheo ấy.”


Tỳ-kheo Nan-đà lại trọn đời cúng dường Bích-chi-phật Thế Tôn, sau khi Bích-chi-phật Thế Tôn diệt độ, dùng đất đá tro xây tháp và các chuỗi anh lạc trang nghiêm cúng dường xá-lợi và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được báo thân đoan chánh, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu không thiếu, giống như thân Tiên nhân này vậy.”


Đối với tháp xá-lợi của Phật Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vị ấy làm một chiếc lọng toàn bằng vàng che lên trên và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được sắc thân như vàng ròng.” Nhờ nghiệp duyên ấy, vị ấy ngày nay được sắc thân màu vàng, đoan chánh, đủ ba mươi tướng đại trượng phu.


Lại thuở ấy, Tỳ-kheo Nan-đà đã phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai không sinh vào các đường ác.” Nhờ nghiệp báo phát nguyện này nên không sinh vào các ác đạo, thường được sinh lên cối trời hay trong nhân gian.


Lại thuở trước, vị ấy đã coi xây tháp thờ xá-lợi Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trọn đời đem bốn sự cúng dường cho Bích-chi-phật; nhờ nhân duyên nghiệp báo ấy, ngày nay được sinh trong nhà họ Thích.

 

Lại thuở ấy Tỳ-kheo Nan-đà đã khởi tâm phát nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai được gặp Thế Tôn như vậy, hoặc hơn thế nữa. Đối với các giáo pháp mà Thế Tôn ấy nói ra, tôi nguyện nghe rồi mau được giải ngộ. Nhờ sức nghiệp báo nhân duyên đó, ngày nay vị ấy được gặp được Ta và xuất gia thọ giới Cụ túc, lại được Ta thọ ký: “Này các Tỳ-kheo, nếu muốn biết hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn hơn hết là ai? Đó là Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.”


Này các Tỳ-kheo, các ông phải biết, ngày xưa Tỳ-kheo Nan-đà đã trồng các căn lành như vậy. Nhờ nhân duyên đó, nay sinh trong nhà họ Thích, thân màu vàng, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu, được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán, lại được Ta thọ ký: “Nếu muốn biết trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn hơn hết là ai? Đó là Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.”


Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Đức Thế Tôn thuyết, hoan hỷ tín thọ lời dạy.



3. Ngoại Truyện

Như vầy tôi nghe. 


Sau khi Nan-đà thành đạo không lâu, lúc bấy giờ, Phật ở tại Ca-lan-đà, trong vườn Trúc, thành La-duyệt, cùng với đại chúng năm trăm tỳ kheo. Khi ấy, A-nan và Đa-kỳ-xa, đúng giờ, đắp y, cầm bát, vào thành khất thực. Lúc ấy, Đa-kỳ-xa ở trong một ngõ hẻm, thấy một người nữ hết sức xinh đẹp hiếm có kỳ đặc ở đời. Thấy rồi, tâm ý tán loạn, không còn bình thường.


Lúc ấy, Đa-kỳ-xa liền dùng kệ này nói cho A-nan:


Bị lửa dục thiêu đốt, 

Tâm ý thật cháy bừng.

Xin nói nghĩa diệt nó, 

Để được nhiều lợi ích.



A-nan liền nói kệ này đáp:


Biết dục, pháp điên đảo;

Tâm ý thật cháy bừng.

Hãy trừ niệm hình tướng, 

Ý dục liền tự dừng.


Đa-kỳ-xa lại nói kệ đáp:


Tâm là gốc của thân; 

Mắt là chỗ thấy đẹp.

Ngủ thấy nguồn kiến tạo, 

Thân như cỏ rối úa.


Tôn giả A-nan liền tiến đến, dùng tay phải xoa đầu Đa-kỳ-xa mà nói kệ này:


Niệm Phật, không tham dục.

Nan-đà vượt dục kia.

Thấy trời, hiện địa ngục, 

Ngăn ý, lìa năm đường.


Đa-kỳ-xa sau khi nghe Tôn giả A-nan nói, liền tự nói:


 “Thôi, thôi, A-nan! Hãy cùng khất thực xong trở về chỗ Thế Tôn.”


Khi ấy, người nữ kia từ xa trông thấy Đa-kỳ-xa, cô ta liền cười. Đa-kỳ-xa khi từ xa thấy người nữ cười, liền phát sanh niệm tưởng này: “Cô này, với hình thể được dựng đứng bởi xương, được quấn chặt bởi da, cũng như cái bình vẽ, bên trong đựng đồ bất tịnh, lừa dối người đời, khiến sinh loạn tưởng.”


Bấy giờ, Tôn giả Đa-kỳ-xa quán sát người nữ kia từ đầu đến chân, trong thân thể này không cái gì đáng ham, ba mươi sáu vật thảy đều bất tịnh. Nay những vật này là từ đâu sinh? Rồi Tôn giả Đa-kỳ-xa lại nghĩ: “Nay ta quán sát thân khác, không bằng tự quán sát trong thân mình. Dục này từ đâu sanh? Từ đất sanh chăng? Từ nước, lửa, gió sanh chăng? Nếu từ đất sanh; đất cứng chắc, không thể bị hư hoại. Nếu từ nước sinh, nước rất mềm, không thể bắt giữ. Nếu từ lửa sanh; lửa cũng không thể bị nắm bắt. Nếu từ gió sanh; gió không có hình, không thể nắm bắt.’ Tôn giả lại nghĩ: ‘Tham dục này chỉ có từ tư tưởng sanh.”


Rồi Tôn giả nói kệ này:


Dục, ta biết gốc ngươi:

Ngươi từ tư tưởng sinh.

Nếu ta không tưởng ngươi,

Ngươi sẽ không hiện hữu.


Khi Tôn giả Đa-kỳ-xa nói bài kệ này, như tư duy về tưởng bất tịnh, ngay tại chỗ, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu.


Lúc ấy, A-nan và Đa-kỳ-xa ra khỏi thành La-duyệt, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên. Đa-kỳ-xa bạch Thế Tôn:


 “Nay con đã được lợi thiện, vì có chỗ giác ngộ.”


Thế Tôn hỏi:


 “Nay ông tự giác thế nào?”

 

 Đa-kỳ-xa bạch Phật:


 “Sắc không bền vững, cũng không chắc chắn, không thể trông thấy, huyễn ngụy, không thật; thọ không bền vững, cũng không lõi chắc, cũng như đám bọt trên mặt nước, huyễn ngụy, không thật. Tưởng không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật, cũng như quáng nắng. Hành không bền vững, cũng không lõi chắc, giống như thân cây chuối, không có thật. Thức không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật.”


Tôn giả lại bạch Phật thêm:


 “Năm thủ uẩn này không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy không thật.”



Bấy giờ Tôn giả Đa-kỳ-xa liền nói kệ này:

Sắc như chùm bọt nổi; 

Thọ như bong bóng nước;

Tưởng giống như quáng nắng; 

Hành như thân cây chuối; 

Thức là pháp huyễn hóa:

Đấng Tối Thắng nói vậy.


Tư duy điều này xong,

Quán sát hết các hành, 

Thảy trống không, vắng lặng; 

Không có gì chân chánh,

Đều là do thân này,

Đức Thiện Thệ dạy vậy.


Cần phải diệt ba pháp.

Thấy sắc là bất tịnh, 

Thân này là như vậy, 

Huyễn ngụy không chân thật, 

Đó là pháp hư hại.

Năm uẩn không bền chắc,

Đã biết là không thật, 

Trở về đạo tối thượng.


“Như vậy, Thế Tôn, đó là những gì mà con đã tỏ ngộ.”


 Thế Tôn bảo:


 “Lành thay, Đa-kỳ-xa! Ông khéo hay quán sát gốc năm thủ uẩn này. Nay ông nên biết, phàm là hành giả thì phải quán sát gốc năm uẩn này đều không chắc thật. Vì sao vậy? Khi Ta đang quán sát năm thủ uẩn này ở dưới bóng cây Bồ-đề mà thành Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, cũng như những gì hôm nay ông quán.”


Khi Thế Tôn nói bài pháp này, sáu mươi Tỳ-kheo ngay trên chỗ ngồi mà được lậu tận, tâm giải thoát.


Tôn giả Đa-kỳ-xa sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến